1. Con đi Tu là để cầu giải thoát.
2. Hàng ngày con chỉ xin ăn một bữa, con không nhận tiền của ai.
3. Y áo con mặc là may từ vải con nhặt từ nơi nghĩa địa, ven đường, thùng rác.
4. Bình bát là con chế từ nồi cơm điện người ta cho con.
5. Đời là vô thường, sống nay chết mai đâu ai biết nên con phải sớm đi tu, lỡ mai chết mất thân này thì con đâu còn cơ hội để tu.
6. Con mong sớm thành chánh quả để con báo hiếu cho cha mẹ.
7. Giờ đây con coi mọi người đều là anh em, cha mẹ con.
8. Trong lòng con không còn ích kỷ, thù hận. Con coi tất cả mọi người trong thế gian đều bình đẳng.
9. Giờ nếu anh có chửi con, con vẫn coi anh là bạn.
10. Người ta có đánh con, con vẫn chúc mọi điều tốt đẹp đến với họ.
11. Mọi người hãy cố gắng giữ 5 giới: không sát sanh; không trộm cắp; không tà dâm; không nói dối; không uống bia rượu.
12. Con nguyện ước chúc cho mọi người được hạnh phúc.
13. Mọi người đừng lạy con mà hãy lạy Phật - Pháp - Tăng nhỉ.
Không ít người thường nhầm tưởng Phật Thích Ca và Phật A Di Đà đều là một vị Phật, hoặc khi được hỏi đều không biết phân biệt ra sao. Trên thực tế, đây là 2 vị Phật tách biệt. Một Vị có thật trong lịch sử và một Vị xuất hiện trong kinh Phật giáo.
Tên thật: Tất Đạt Đa - Con vua Thịnh Phạn
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là bậc giáo chủ cõi Ta Bà. Ngài từng sống trên trái đất này và đã sáng lập ra Phật Giáo. Cõi Ta Bà là cõi đau khổ, chính là trái đất, nơi con người đang sinh sống.
Ở cõi giới này, Đức Phật Thích Ca giáo hóa chúng sinh, nên người đời tôn xưng Đức Phật Thích Ca là bậc giáo chủ cõi Ta Bà. Ngài là vị Phật lịch sử chứ không phải là một vị Phật huyền thoại.
Còn Phật A Di Đà là vị Phật được tôn thờ nhiều nhất trong Phật giáo Đại thừa.
Tên của Ngài nghĩa là Vô Lượng Thọ, nghĩa là thọ mệnh vô lượng và Vô Lượng Quang, ánh sáng vô lượng.
Đức Phật A Di Đà là giáo chủ cõi Cực lạc an vui ở Tây phương.
Phật A Di Đà được Phật Thích Ca giới thiệu lại cho chúng sanh.
Theo lời dạy của Phật Thích Ca, con người nếu muốn sau khi chết được tái sinh về cõi Tây Phương Cực Lạc thì trong quá trình sống, làm việc luôn hướng về điều thiện, làm điều thiện, siêng năng niệm Thánh hiệu: Nam Mô A Di Đà Phật, thì khi chết chúng ta sẽ đước tái sinh về cõi Tây Phương Cực Lạc này.
Sau khi tái sinh đến cõi này, chúng ta tiếp tục cùng mọi người tu hành theo sự hướng dẫn của Phật A Di Đà cho đến khi chứng đắc Thánh quả giải thoát.
Hình dáng đặc trưng Phật A Di Đà
trên đầu có các cụm tóc xoắn ốc, mắt nhìn xuống, miệng thoáng nụ cười cảm thông cứu độ, khoác trên người áo cà sa màu đỏ, tượng trưng cho màu mặt trời lặn phương Tây, áo có thể khoát vuông ở cổ, trước ngực có chữ “vạn”.
Tư thế tay Phật A Di Đà có thể trong tư thế đứng, tay làm ấn giáo hóa, tức là tay mặt đưa ngang vai, chỉ lên, tay trái đưa ngang bụng, chỉ xuống, hai lòng bàn tay hướng về phía trước. Trong mỗi tay, ngón trỏ và ngón cái chạm nhau làm thành vòng tròn.
Phật A Di Đà cũng có thể ngồi kiết già trên tòa sen, tay bắt ấn thiền, tay để ngang bụng, lưng bàn tay phải nằm chồng lên lòng bàn tay trái, hai ngón cái chạm nhau. Trên tay Phật có thể giữ một cái bát, là dấu hiệu cho giáo chủ.
Một dạng khác của ấn thiền ở tượng Phật A Di Đà là các ngón tay giữa, ngón đeo nhẫn và ngón út của hai bàn tay nằm lên nhau, ngón cái và ngón trỏ mỗi tay tạo thành hai vòng tròn chạm nhau. Vì thế, ấn này còn gọi là Ấn thiền A Di Đà.
Các nhân vật đi kèm Phật A Di Đà
thường được minh họa cùng hai vị Bồ Tát là
- Quán Thế Âm bên trái, cầm cành dương và bình nước cam lộ
- Đại Thế Chí bên phải, cầm bông sen xanh.
Hình dáng đặc trưng Phật Thích Ca
Tóc Phật Thích Ca có thể búi tó hoặc có các cụm xoắn ốc. Phật Thích Ca mặc áo cà sa hoặc áo choàng qua cổ màu vàng hoặc nâu, nếu có hở ngực thì trước ngực không có chữ "vạn". Phật có thể ngồi trên tòa sen, nhục kế trên đỉnh đầu, đôi mắt mở ba phần tư.
Thường trong các chùa Phật giáo Bắc tông Đại Thừa đều thờ Ngài Phật Thích Ca ở chính giữa chính điện. Nên gọi Ngài là đấng Trung Tôn. Hình tượng Ngài không nhất thiết phải giống người Ấn Độ, vì theo quan niệm Phật giáo Bắc tông, nhất là Thiền tông cho rằng, mỗi người đều có Phật tức là Phật tính nên người nước nào tạc tượng giống người nước đó. Từ nét mặt cho đến hình tướng. Nên hình tượng thờ trong các chùa không nhất thiết phải giống nhau. Đó là xét trên đại thể, còn các chi tiết tương đối giống nhau.
có thể được minh họa cùng hai vị tôn giả là Ca Diếp, vẻ mặt già, bên trái và A Nan Đà, vẻ mặt trẻ, bên phải. Đây là hai đại đệ tử của Phật Thích Ca khi ngài còn ở thế gian.
Cũng có nơi thờ tượng Phật Thích Ca ngự trên đài sen là một ý nghĩa tượng trưng siêu thực. Bởi vì hoa sen được biểu thị cho đức tánh thanh tịnh và giải thoát. Hoa sen phát xuất trong lòng vũng bùn nhơ nhớp, mà vẫn tỏa ra mùi hương thanh khiết. Đó là đặc tính không thể tìm được trong các loài hoa khác.
Nằm giữa vũng bùn nhơ nhớp, mà không bị lây nhiễm mùi hôi hám, trái lại còn đầy đủ hương vị thơm tho, đó mới thật là thanh tịnh. Vì cái thanh tịnh ngay giữa chỗ ô uế, mới chân thật thanh tịnh. Nếu hoa sen mọc giữa bãi cát trắng phau, hay trên gò đất khô sạch sẽ, dầu có hương sắc gấp mấy lần hơn vẫn không được quý trọng. Bởi nó chui từ vũng bùn hôi hám mà lên, lại giữ được tánh cách thanh khiết, nên mới được mọi người kính mộ.
Đức Phật Thích Ca cũng thế, trước kia Ngài cũng là một con người như chúng ta, cũng có gia đình, cũng hưởng giàu sang sung sướng, nhưng con người ấy không bị dục lạc làm ô nhiễm, không bị sợi dây gia đình trói buộc.
Ở trong cảnh nhiễm ô dục lạc mà tâm hồn Ngài trinh bạch, ngồi trong tù ngục gia đình mà chí Ngài đã vượt ra ngoài vũ trụ mênh mông. Đức tánh trinh bạch và siêu việt ấy, chỉ có hoa sen mới đủ sức tượng trưng.
Đức Phật cũng nhấn mạnh đến bổn phận của con cái đối với bố mẹ. Trong Kinh Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikaya), Đức Phật đã nói, "Nầy các Tỳ Kheo, Như Lai nói rằng có hai người mà ta không bao giờ có thể đền đáp công ơn được. Hai người đó là hai người nào? Đó là bà mẹ và ông bố." Lý do tại sao như thế? "bởi vì bố mẹ đã tạo nhiều công ơn cho con cái: bố mẹ đã nuôi nấng cho con khôn lớn, và dẫn dắt con trên đường đời." Tuy nhiên, con cái có thể biểu lộ lòng tử tế tương đương, hoặc là nhiều hơn lòng tử tế của bố mẹ bằng cách giúp bố mẹ hiểu biết Phật Pháp:". "[Một] đối với những bố mẹ sống thiếu hiểu biết, người con có thể khuyến khích bố mẹ bằng cách tạo cơ hội và gây dựng cho bố mẹ sống đời hiểu biết và khôn ngoan - nầy các Tỳ Kheo, được như thế, những người con nầy đã làm đầy đủ bổn phận: họ đã hoàn toàn trả hiếu, bởi vì công ơn của những người con nầy nay đã hơn hẳn công ơn của bố mẹ họ đã làm." (Bohdi 2005,119).
Khi vua cha Tịnh Phạn ngăn cấm xuất gia, Ngài liền đặt bốn câu hỏi cho vua cha:
Làm sao cho contrẻ mãi không già?
Làm sao cho con khỏe mạnh không ốm đau?
Làm sao cho con sốnghoài không chết?
Làm sao cho chúng sinh hết khổ?
Vua Tịnh Phạn không trả lời được một trong bốn câu hỏi đó. Đêm mùng 8 tháng hai, từ bỏ tất cả,Ngài khoác trên mình bộ áo màu vàng đơn giản của người tu sĩ, vượt thành xuất gia bắt đầu cuộc sống không nhà của người xuất gia cầu đạo. Khi đó Ngài 19 tuổi.
là biểu thị quán sát nội tâm. Giáo lý Phật dạy là giáo lý nội quan, luôn luôn phản chiếu nội tâm để tự giác tự ngộ. Tâm mình là chủ nhân ông của mọi hành động, mọi nghiệp quả. Ngộ được tự tâm là thấy được nguồn gốc vũ trụ và nhơn sinh.
Vì thế, Phật giáo chủ trương con người làm chủ mọi quả báo an lạc hay đau khổ của mình. Muốn tránh quả khổ đau, cầu quả an lạc, con người phải tự sửa đổi hành vi trong tâm niệm và hành động nơi tự thân mình. Một tâm niệm lành, một hành động tốt sẽ đến cho ta kết quả an vui hạnh phúc.
Ngược lại, một tâm niệm ác, một hành động xấu sẽ chuộc lấy kết quả khổ đau về nơi mình. Chỉ có ta mới đủ thẩm quyền ban phúc giáng họa cho ta. Sự cầu cạnh, sự van xin nơi tha nhân hay thần linh, nếu có chỉ là phần phụ thuộc không đáng kể. Cho nên, ta phải quán sát lại ta, để luyện lọc tâm tánh và sửa đổi hành động của mình. Ách yếu của sự tu hành là phản quán tự tâm.
Chung quanh tượng Phật Thích Ca có những tia hào quang sáng chiếu để tiêu biểu ánh sáng trí tuệ của Phật lúc nào cũng soi sáng thế gian.
"Nam mô A Di Đà Phật," có 6 ý nghĩa quan trọng:
Khi niệm câu này, Phật tử thể hiện lòng thành kính tới Đức Phật, tin rằng ngài có thể cứu giúp và đem lại ánh sáng cho cuộc sống của họ.
Vậy "Nam mô A Di Đà Phật" là "kính lễ đấng Giác ngộ vô lượng" hoặc cũng có nghĩa là "Con quay về nương tựa vào đấng Giác ngộ vô lượng"
là bậc thầy thấu rõ, giác ngộ chân lý vạn pháp, đem lại ánh sáng cho nhân gian.
Nam mô: Kính lễ
Bổn: nghĩa là gốc.nghĩa là gốc.nghĩa là gốc.nghĩa là gốc.nghĩa là gốc.
Sư:một vị thầy lớn
Thích Ca : Họ của Phật
Mâu Ni: nghĩ đến con người trầm mặc vô song, có đời sống nội tâm mãnh liệt, có tầm nhìn chính xác vô cùng
Phật:
Ngài có nghĩa là năng nhân và tịch mặc. Nhân trong nhân đức và năng là năng lực, sức mạnh, năng nhân là sức mạnh của lòng nhân từ. Sức mạnh đó luôn tồn tại trong Đức Phật và cứu khổ cho chúng sinh, nguyện đưa chúng sinh đến nơi cực lạc, xua đi mọi muộn phiền, khổ đau trong cuộc sống.
Tên của Ngài có nghĩa là năng nhân và tịch mặc. Nhân trong nhân đức và năng là năng lực, sức mạnh, năng nhân là sức mạnh của lòng nhân từ. Sức mạnh đó luôn tồn tại trong Đức Phật và cứu khổ cho chúng sinh, nguyện đưa chúng sinh đến nơi cực lạc, xua đi mọi muộn phiền, khổ đau trong cuộc sống.
Tịch mặc có nghĩa là trí tuệ, sự thấu đáo của trí tuệ thấu đạt mọi ngoại cảnh. Đức Phật là bậc đại trí, thoát khỏi tình trạng nô lệ cho ngoại cảnh, cho thân xác và ngộ ra chân lý giải thoát.